Nhu Le; Trước hết, thì Soeur có thể giới thiệu về bản thân gồm tên, tuổi và hiện tại đang làm công việc gì tại Portland được không ạ?
Joanna Nga Hoàng : Tên của Soeur là Hoàng Nga Joanna, 48 tuổi. Công việc của Soeur bây giờ là hiện đang làm tại Toà Tổng Giám Mục của địa phận Portland, Oregon.
NL: Soeur có thể cho biết lúc trước cô/chú/bác được sinh tại đâu ở Việt Nam? Nămnào?
JH: Lúc trước Soeur được sinh ra tại Bình Dương, Việt Nam vào năm 1972.
NL: Lý do tại sao gia đình hoặc bản thân cô/chú/bác quyết định rời quê hương và đến Hoa Kỳ? Cơ duyên nào đã mang cô/chú/bác đến với thành phố Portland?
JH: Thứ nhất, ba của Soeur đi diện H.O vì lúc trước có làm việc cho Việt Nam Cộng Hòa thời đó. Cho nên với quyền công dân, từ lúc ba của Soeur đi tù về thì mình cũng mất khá nhiều quyền công dân. Phần ba của Soeur thì Soeur không nói nhưng riêng với những con cháu, anh chị em, hoặc gia đình của Soeur không có quyền công dân như những người khác. Nhiều khi đi học hoặc làm việc gì cũng đều bị kỳ thị vì là con cháu của quân quyền, làm bất cứ việc gì cũng bị xét lý lịch. Nhiều khi mình không có được cơ hội để tiến thân hoặc là học cao hơn. Cho nên, vì lý do đó, nếu có cơ hội là gia đình của Soeur nắm bắt liền. Tại vì mình mất quyền công dân. Ví dụ, Ba của Soeur đi lính từ thời Việt Nam Cộng Hoà thì họ có thể làm mất quyền công dân của người đó nhưng mà con cháu hoặc những người trong gia đình đều bị ảnh hưởng hết. Thêm một vấn đề nữa là vì tôn giáo. Bởi vì gia đình của Soeur là thuộc đạo Công Giáo, cho nên đi thi vào đại học hoặc những ngành nghề nào thì họ sẽ xét lý lịch. Thế là mình không có được chung một quyền lợi như những người khác, nên gia đình của Soeur phải đi là như vậy. Gia đình của Soeur thì đang sinh sống tại thành phố Los Angeles, California từ lúc định cư tại Hoa Kỳ. Còn riêng Soeur thì Soeur qua bên đây vì có nhà dòng ở đây, nên khi Soeur qua Mỹ thì Soeur vào nhà dòng.
NL: Lúc Soeur rời đi là bao nhiêu tuổi? Ở tuổi đó, cảm xúc của Soeur khi ra đi là gì?
JH: Soeur rời Việt Nam lúc Soeur khoảng 22 tuổi vào năm 1994. Thật sự thì không ai muốn đi hết, tại vì mình sinh ra và lớn lên ở đó. Mọi thứ đều ở đó hết. Lúc đó khi gia đình Soeur quyết định đi qua Mỹ thì không một ai nghĩ là sẽ quay về và ở Mỹ cũng không có bà con thân thuộc nào hết cho nên khi đi là hoàn toàn tay trắng. Khi mà gia đình Soeur bắt đầu đi là trong tay chỉ có $1,000 đô la thôi, cho chín người. Cho nên đi qua đây là nhờ những người quen biết để họ lo giấy tờ và giúp gia đình đến những hội để làm thủ tục. Thật sự khi qua đây phải gọi là một sự ‘hy sinh.’ Phải bỏ đi rất là nhiều, tiếng Anh cũng không biết cho nên mọi cái khi bắt buộc phải ra đi thì phải đi thôi. Nhưng nếu có một sự lựa chọn tốt hơn thì chắc sẽ không rời Việt Nam tại vì sinh ra, lớn lên, bà con, gia đình, mọi cái. Chị của Soeur lúc đó là phải ở lại bởi vì có lập gia đình nên không theo được mà bản thân Soeur cũng không biết khi nào mới được gặp lại. Bây giờ thì dễ hơn, chứ lúc cất bước ra đi là gia đình Soeur không hề nghĩ rằng sẽ quay trở về được, cũng không biết bao lâu sẽ có tiền để mua vé bay về Việt Nam. Cho nên, lúc đó thật sự rất là đau khổ. Mặc dù, có rất nhiều người nói là bên đây sẽ có một cuộc sống xung túc hơn nhưng quan trọng ở điểm là tinh thần, nên đôi khi người ta nghèo mà họ có tinh thần. Lúc Soeur rời Việt Nam, Soeur cảm thấy có sự mất mát rất là lớn.
NL: Trong lúc trên đường/chuyến bay từ Việt Nam qua tới Hoa Kỳ thì Soeur có những trở ngại nào không? Kỷ niệm đáng nhớ nhất lúc đó của Soeur là gì?
JH: Gia đình Soeur đi qua đây thì không có trở ngại nào cả, đi thì đến phi trường ở Thái Lan. Nhưng, chưa bao giờ Soeur đi nước ngoài cho nên đi máy bay. Lúc đó với tư cách là một người đi tị nạn thì ở đó khoảng 10 tiếng để chờ chuyển máy bay. Vì là tị nạn nên họ không cho mình vào bên trong phi trường, nên mình ở trong một khu trại còn những ai đi du lịch thì họ sẽ được đưa vào một khu khác. Soeur vẫn còn nhớ là mình ở trong một cái hàng rào, rồi lúc đó vừa mệt, vừa đói và vừa khát. Người ta có bán nước nhưng mà một chai nước là $1.50, thấy đắt quá nên cũng không dám mua uống. Tại vì mình là Việt Nam mới qua mua một chai nước vài chục ngàn thì không dám nhưng cuối cùng thì gia đình Soeur cũng quyết định mua một chai rồi mỗi người chia nhau uống một ít để đỡ khát. Mặc dù là chính phủ cho mình đi một cách hợp pháp, nhưng có những điều mình không tưởng tượng ra được. Đúng, mình cảm thấy mình may mắn hơn rất nhiều người. Đó là một kỷ niệm khi nghĩ lại thì hành trình của mình đi qua đây may mắn hơn so với những người đi vượt biên. Ít nhất, mình còn có tiền để mua nước.
NL: Khi bước chân đến Hoa Kỳ nói chung, và Portland nói riêng thì điều bất ngờ, đáng nhớ nhất của Soeur là gì?
JH: Khi gia đình của Soeur đến Los Angeles, biết rằng đi vào tháng 11 thì thời tiết sẽ lạnh nhưng mà không nghĩ nó lạnh kinh khủng. May là ở bên Cali thì nó không lạnh lắm, Việt Nam mới qua mặc bao nhiêu áo mà vẫn run cầm cập luôn. Cảm giác đầu tiên là lạnh. Có những điều nó khiến mình ngỡ ngàng, tại vì khi Soeur ở Việt Nam rồi coi những phim có cảnh nước ngoài thì thấy xe chạy vào rồi cửa tự động mở ra - trong đầu mình nghĩ “Chắc là họ đóng phim nên có hai người đứng kéo cửa.” Nhưng mà đến lúc phi trường Los Angeles, đi đến cửa thì nó tự động mở, nên mới bảo, “Ủa? Không thấy người mà sao cửa tự mở, không hiểu.” Bởi vậy, nhiều khi mình nghĩ lại, mình ở một xứ không có văn mình nên khi mình đi qua một đất nước khác thì nó có những sự ngỡ ngàng. Có những điều nó rất là bình thường nhưng đối với mình thì lại ngỡ ngàng. Soeur về bên Cali thì chỉ có những người quen biết thôi chứ không có bà con, ruột thịt nào cả. Lúc đó có họ thì họ đón, sau đó thì mình học hành và làm việc. Thật sự những năm đầu cũng khá là vất vả, những người quen thì họ cũng giúp mình một phần nào về giấy tờ thôi còn phần còn lại là ở bản thân và gia đình mình. Cũng may, Cộng Đồng Việt Nam tại Cali có những chương trình để giúp cho những người di dân, tị nạn. Với lại gia đình của Soeur là đi theo diện H.O nên cũng được chính phủ trợ cấp rất là nhiều. Không có đến nổi nào tệ về mặt vật chất, nhưng về mặt tinh thần thì Soeur nghĩ ai cũng vậy. Đi di dân tức là mình bỏ quê hương, hàng xóm, gia đình thì sẽ cần một thời gian để quen dần với cuộc sống mới.
NL: So với Oregon thì thời tiết bên Cali ấm hơn, vậy thì khi Soeur qua bên đây thì Soeur có thấy sự khác biệt giữa Cali và Oregon không?
JH: Lúc Soeur về nhà dòng ở tiểu bang này là tháng 4 nên thời tiết cũng đẹp. Thời tiết cũng lạnh hơn Cali nhưng mà Soeur ở bên Cali chỉ có nửa năm thôi, đến khi Soeur qua đây thì Soeur cảm thấy thích hợp vì Soeur là một người đi tu. Cũng như là Soeur sống và lớn lên ở miền quê nên thích khí hậu của Portland vì nó có cây cối, yên tĩnh, và hài hoà. Còn Cali thì nó giống trên thành thị, ồn ào và nhộn nhịp. Nói về Cộng Động thì không có sự khác biệt nhiều, tại vì Soeur chỉ ở bên Cali từ năm đến sáu tháng thôi nên Soeur không có quen biết nhiều mà cũng không đi ra ngoài nhiều. Khi Soeur qua đây thì có Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang, các Soeur, người Việt ở đây rất là đông. Vì vậy nên bây giờ nếu Soeur có vacation thì Soeur cũng qua Cali nhưng ở một thời gian ngắn thôi, chứ nếu ở luôn thì Soeur sẽ không chịu được. Có lẽ vì là người đi tu nên thích sự hài hoà bên đây hơn.
NL: Xin Soeur miêu tả khu dân cư của Soeur tại Portland khi quý vị mới bước chân tới đây. Soeur có cảm thấy bị cô lập hoặc Soeur có thấy người Mỹ gốc Việt nào ở gần đây không?
JH: Nếu nói đến Portland mà bản thân Soeur thấy thay đổi nhiều nhất xung quanh khu nhà dòng của Soeur đang ở. Hồi đó lúc Soeur về khu này thì nó gần như một làng quê nhỏ nhỏ, dễ thương lắm. Tại vì ở đầu đường, bước ra vài bước là có ngân hàng rồi bưu điện. Nó có đầy đủ hết. Cho đến bây giờ thì nó thành một con đường mang tên Stark, thì những ngân hàng, chợ, tạp hoá, và bưu điện đều biến mất. Bây giờ nó gần như là một khu ăn chơi, những dân sành điệu đến đây. Thành ra, nó thay đổi rất nhiều. Xung quanh Soeur có những building mới được xây lên, mặc dù nó không thay đổi hoàn toàn nhưng mà gần như những ngôi nhà cũ là bị đập hết và bắt đầu có những cơ sở thương mại. Ngày xưa thì ở đây là một khu dân cư yên tỉnh, vì nó ở phía trên đồi còn bây giờ thì nó thay đổi.
NL: Soeur có thấy khó khăn để hội nhập với cuộc sống ở đây không? Một số thách thức Soeur gặp phải là gì?
JH: Nếu mà nói từ Việt Nam qua đến Mỹ thì điều khó khăn nhất là về ngôn ngữ, tại vì Soeur không có vốn tiếng Anh trước ở Việt Nam. Cho nên khi qua đây là mọi thứ, những gì mình làm cho bản thân cảm thấy mình mất đi nguồn gốc của mình và đến sự tự tin nữa. Nhiều khi mình đi ra đường hoặc là mình sống trong Cộng Đồng cũng vậy nữa, có những Soeur qua trước, cho nên có những điều mình biết nhưng mình không dám nói. Tại vì mình không có tự tin, cũng như kinh nghiệm sống thì cũng không có. Đôi khi đi ra đường mình bị người khác kỳ thị nhưng mà bản thân cũng không dám nói. Đó là vấn đề của người Việt Nam mới qua. Còn vấn đề ăn uống, cuộc sống thì không có khác biệt lớn. Bởi vì cũng là những món ăn Việt Nam nên cũng không thiếu thốn nhiều. Vấn đề về cuộc sống để hội nhập ở bên đây, có những việc mình không biết vì mình sống cách sống ở bên Việt Nam. Tất cả đều cần có thời gian, từ từ học để hiểu.
NL: Soeur đã làm công việc gì và Soeur có thể so sánh công việc đó với công việc Soeur đã làm ở Việt Nam nó giống và khác nhau như thế nào?
JH: Soeur cảm thấy công việc hiện tại của Soeur rất thích hợp. Năm nay Soeur làm là chính thức chín năm. Tại vì công việc, môi trường là giúp đỡ cho các giáo xứ. Hồi trước Soeur làm việc ở trong giáo xứ, tức là làm những việc Toà Tổng Giám Mục đưa xuống. Còn bây giờ Soeur làm ở Toà Tổng Giám Mục là những chương trình để hỗ trợ cho giáo xứ. Nó là ở một bước khác, nhưng nó cũng liên quan đến công việc của Giáo Xứ. Cho nên, Soeur thấy khi Soeur làm việc trong Tòa Tổng Giám Mục thì nó tốt cho Soeur là điều thứ nhất, điều thứ hai là Soeur có thể giúp Cộng Đồng Việt Nam. Ví dụ có những cái Toà Tổng Giám Mục cần liên lạc với ở bên Việt Nam hoặc toà án hôn phối, thì Soeur có thể giúp về vấn đề thông dịch. Cũng như những cái Toà Tổng Giám Mục cần liên lạc với Giáo Xứ, gặp những trở ngại về ngôn ngữ thì Soeur cũng có thể giúp về vấn đề đó. Cho nên Soeur thấy công việc này rất tốt cho Soeur từ lợi ích, đến công việc hành chính có thể giúp cho người Việt.
NL: Những vấn đề kinh tế và xã hội nào đáng chú ý nhất trong cộng đồng người Việt, hay với người tị nạn nói chung ? Các chương trình của thành phố, tiểu bang hoặc liên bang có thể giúp nhiều cho các vấn đề này không?
JH: Khi gia đình Soeur qua đây thì chính phủ cũng hỗ trợ vài tháng đầu trong thời gian đi tìm việc làm, nhưng sau này thì Soeur không có nhận nhiều trợ cấp của Cộng Đồng nữa. Hầu như, ví dụ Soeur đi học ở Portland Community College (PCC) thì có chương trình Financial Aid. Xin những cái đó thì nếu hội đủ điều kiện của một người low income, thì họ sẽ cho. Còn những chương trình trợ cấp các thì Soeur không biết nhiều. Nhưng Soeur thấy nếu Cộng Đồng có những chương trình trợ cấp nhất là dành cho những người di dân thì sẽ giúp cho họ rất là nhiều. Tại vì khi họ đến một nơi nào đó là cuộc sống của họ trở nên xáo trộn, kiếm công ăn việc làm không phải dễ. Cho dù sau này những gia đình từ Việt Nam qua bên đây, họ được học đại học nhưng không có nghĩa là tìm được việc ngay. Rồi họ bị cú sốc văn hoá, ví dụ họ ở Việt Nam thì họ đang làm Bác Sĩ còn nếu qua đây thì họ đâu làm Bác Sĩ được nữa. Họ đành phải đi làm một ngành nghề khác, ví dụ nghề nail để có tiền mà lo cho gia đình. Từ một chức vụ cao xuống một công việc bình thường. Thực tế nhất là ba của Soeur ngày trước từng làm việc trong văn phòng xong rồi qua bên đây là đi bỏ báo do tuổi lớn đi xin việc không được. Có những điều họ bắt buộc phải chấp nhận và làm nhưng trong lòng họ có sự mặc cảm và hổ thẹn. Nên những người mới qua bị ảnh hưởng tâm lý rất nhiều. Nếu có những chương trình giúp họ vượt qua được, ít nhất là giai đoạn đầu thì sẽ rất có lợi cho họ. Soeur thấy có rất nhiều người đây, sống không được bao lâu rồi quay ngược trở về lại Việt Nam. Họ đâu biết rằng phải mất ít nhất một đến hai năm mới ổn định được về tinh thần, văn hoá và công ăn việc làm. Đâu phải qua đây là sẽ có việc ngay nhưng để hiểu được những vấn đề đó thì phải cần sự dìu dắt, thì may ra họ sẽ vượt qua được. Hầu như những người Soeur tiếp xúc đều gặp phải những vấn đề đó.
NL: Soeur thấy sự khác biệt nào giữa nền Giáo dục Hoa Kỳ so với của Việt Nam không?
JH: Bây giờ thì Soeur không biết họ có những cải cách, thay đổi nào nhưng thế hệ của Soeur khoảng hơn 20 năm về trước cho đến lúc Soeur qua bên Mỹ thì Soeur thấy có sự khác biệt rất nhiều. Ví dụ như trong trường học thì các học sinh sẽ học theo cách “giáo viên nói như thế nào thì nghe theo y như vậy.” Nó không có sự sáng tạo, tự do về quan điểm hoặc suy nghĩ. Các thầy cô viết trên bảng như thế nào thì học sinh chép xuống rồi học thuộc lòng. Soeur thấy có sự khác biệt ở điểm đó. Thêm một vấn đề nữa ở Việt Nam tức là những gia đình nào có điều kiện về mặt tài chính để hỗ trợ cho con đi học. Thứ hai là về vấn đề lý lịch. Mặc dù có những gia đình có khả năng để cho con mình đến trường nhưng xét về lý lịch thì không được. Đó là sự giới hạn. Còn ở bên Mỹ, ai có khả năng học, muốn học lúc nào cũng được. Không giới hạn tuổi tác, bây giờ 70 - 80 tuổi, muốn đi học để lấy bằng high school hoặc đi vào đại học thì vẫn có thể học được. Cho dù nghèo, chính phủ vẫn có những chương trình để giúp người nghèo đi học. Bên đây, họ tạo cơ hội cho mọi người có được sự giáo dục còn ở Việt Nam thì rất nhiều em nhỏ mong được đi học nhưng hoàn cảnh không cho phép. Bên Việt Nam, học xong lớp 12 là lập gia đình hoặc đi làm một việc nào đó chứ nếu nói đến vào trường đại học là cả một ước mơ.
NL: Bên Công Giáo, khi một người muốn đi tu thì họ sẽ nói là họ có ơn gọi. Vậy vì sao Soeur lại quyết định đi tu?
JH: Cho đến bây giờ mà hỏi về ơn gọi thì Soeur không có một câu trả lời hoàn hảo được. Thật sự ơn gọi đi tu cũng giống như khi một cặp đôi yêu nhau vậy, người ta không hiểu lý do tại sao họ lại yêu đối phương, tại sao lại chọn người đó. Thì đối với Soeur, vấn đề đi tu cũng vậy. Soeur đi vào nhà dòng cũng trễ, lúc đó là Soeur khoảng 19 tuổi. Điều làm Soeur phải suy nghĩ và quyết định là khi gia đình Soeur có giấy tờ đi Mỹ thì Soeur cũng không có được nhận vào đại học. Lúc đó Soeur có ý định đi học ngành sư phạm mà được vài tháng là họ bắt phải cắt hộ khẩu, để mà đi học. Nên nếu mà cắt hộ khẩu là Soeur không được đi qua Mỹ chung với gia đình nên Soeur không có đi học tiếp. Thành ra, Soeur cũng ở nhà thôi nên cũng tham gia những công việc của tư thiện rất là nhiều. Soeur cũng hay đến thăm trại cùng, rồi Soeur gặp các Soeur ở đó. Có một lần, vì các Soeur đó biết Soeur cũng có trình độ với sư phạm nên nhờ Soeur lên dạy kèm các con của những người cùi vì mấy em đi học ở ngoài bị kỳ thị. Những bạn ở trong trường không có ngồi chung bàn với nó mặc dù nó không mắc bệnh phong cùi. Ở ngoài đường thì bị trêu ghẹo là con của người cùi nên nó bị mặc cảm. Nên mỗi một tháng là Soeur đi dạy học thêm cho các em, nhưng lúc đó ba mẹ của Soeur không cho bởi vì sợ sẽ bị lây bệnh. Không biết sao Chúa dùng lời nói của ba Soeur rồi nói, nếu Soeur muốn giúp thì đi tu. Tại nếu mà không may bị lây thì ở trong nhà dòng có các Soeur lo cho còn nếu mà ở nhà rồi bị mắc bệnh thì ba mẹ chết rồi, ai lo. Xong rồi, Soeur quyết định đi tu. Cứ như vậy mà đưa đẩy Soeur đến con đường tu trì. Đến bây giờ Soeur đi tu đã được 25 năm nhưng Soeur chưa bao giờ đặt câu hỏi lại là có nên thay đổi ơn gọi không. Điều đó là Chúa cho Soeur thôi, mình vẫn còn sự nhiệt huyết.
NL: Soeur có bất cứ điều gì chúng tôi chưa hỏi mà Soeur muốn chia sẻ không?
JH: Thật sự có rất nhiều vấn đề để mình có thể nói với giới trẻ, nhất là đối với những các bạn Việt Nam. Thật sự khi các em sinh ra và lớn lên tại đây thì các em bị thiếu một điều là các em không có kinh nghiệm về phong tục, văn hoá của Việt Nam nên nó khó hơn cho các em khi bố mẹ của các em lớn lên và đã sống quen theo lối sống như vậy rồi. Đôi khi họ cũng ở đây từ 10 đến 20 năm đó, nhưng mà họ không thể hoàn toàn giống người Mỹ được. Cho nên, mình phải hiểu và thông cảm cho nhau. Có những bố mẹ và con cái không hiểu nhau được; bố mẹ trẻ tuổi thì còn hiểu được nhưng với bố mẹ lớn tuổi thì đôi khi họ không thể nào được suy nghĩ của giới trẻ mà giới trẻ cũng không thể nào hiểu được những cái ưu tư của người lớn. Vì vậy, mình cần sự cảm thông, dù là mình sống trên đất Mỹ nhưng mà không nhất thiết mình phải hoàn toàn giống như người Mỹ. Một điều đó chính là mình phải luôn luôn hãnh diện, mình là người Việt Nam. Mình phải biết rằng mình có những văn hoá, rất là tốt mà người Mỹ phải học hỏi. Đừng nghĩ là minh sinh ở Mỹ có nghĩa mình là người Mỹ rồi, họ không bao giờ nhìn mình là người da trắng. Dù có chuyện gì, họ vẫn nhìn mình là một người da vàng. Cho nên mình phải thể hiện đúng con người của mình, người da màu. Soeur thấy có rất là nhiều người Việt họ thành công trên Nước Mỹ lắm, nhưng họ không nhận họ là người Việt Nam. Không có gì phải xấu hổ vì mình là người Việt Nam cả, mình phải hãnh diện để sống. Có những thói quen, văn hóa không phù hợp ở đất nước này thì mình không cần phải giữ nhưng nếu nó là một thói quen tốt thì mình nên giữ.
Giống ví dụ, ở Toà Tổng Giám Mục phải nể phục tinh thần của người Việt Nam tại Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang. Mới đây lúc tháng 12 năm 2019, vừa bị một chiếc xe tông vào bị tan hoang hết nhưng sau vài ngày là trở lại bình thường. Cho đến bây giờ Giáo Xứ đã mua được một ngôi thánh đường mới, trong đó toàn là công sức của giáo dân. Thế nên, không phải một dân tộc nào cũng là hoàn hảo cả. Đôi khi Mỹ đen, Nhật Bản, Hàn Quốc cũng có những cái hay riêng của họ. Không phải Mỹ trắng là số một, hoàn hảo đâu.
NL: Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt đã bắt đầu như thế nào? Xuất xứ từ đâu?
JH: Nhà Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt là từ Việt Nam. Trước năm 1975, là có ba Soeur đi du học ở bên đây. Thì khi du học ở bên đây cho đến năm 1975 thì bị kẹt ở đây nên không quay về được. Lúc đó vì bị mất nước cho nên các Soeur ở lại đây tại Mỹ. Sau này gia đình của các Soeur qua đây bằng diện H.O, đa số là vậy. Khi mà qua đây thì chị em ở chung bên này, rồi từ từ nhà dòng phát triển lên rồi có các em gái mà có ơn gọi thì đi tu. Các Soeur mới qua đây thì cũng vất vả lắm, có người thì đi theo gia đình, có người thì đi vượt biên - di dân rồi qua đây gặp nhau rồi tụ họp lại để tiếp tục con đường tu trì.
NL: Trong thời gian mới mở thương mại/tổ chức này có những khó khăn nào không? Và giải quyết vấn đề như thế nào?
JH: Giai đoạn khó khăn thật sự mãi cho đến bây giờ vẫn là vấn đề kinh tế. Thật sự các Soeur không có nghèo, các Soeur được sống dưới ơn gọi khó nghèo nhưng mà sau này thì các Soeur đỡ hơn. Nhất là những năm sau này bởi vì thời gian đầu các Soeur qua cũng phải tự lực cắn sinh, phải đi làm. Nói chung là cũng chật vật lắm nhưng cũng nhờ những sự trợ giúp của Cộng Đoàn, và bên Giáo Xứ rồi các Soeur đi làm để có những bảo hiểm, cũng phải trả tiền thuê nhà như những gia đình ở ngoài. Nhưng khác ở điểm là các Soeur phải làm những công việc phụng vụ. Cho đến bây giờ khi các em vào nhà dòng hoặc các Soeur ở bên Việt Nam qua thì cũng phải giúp họ có những cái bằng cấp để họ có thể đi phụng vụ. Giống như bây giờ Soeur đi làm rồi thì Soeur sẽ giúp lại cho các em. Những chương trình như tìm hiểu ơn gọi cho các em, từ thiện thì các Soeur vẫn phải làm. Trách nhiệm của nhà dòng các Soeur là về giáo dục nên các Soeur cũng có nhà trẻ, như vậy thì khi họ gửi trẻ thì các Soeur cũng có thu nhập ít nhưng với những trường hợp khó khăn của gia đình thì các Soeur cũng phải đứng ra hỗ trợ. Nếu nói khó khăn quá thì cũng không khó khăn nhưng cũng cần những thứ để xoay trở. Lúc trước nhà dòng của các Soeur là thuê của Tòa Tổng Giám Mục nhưng mà sau này các Soeur mua lại cho nên có một thời gian các Soeur phải đi gây quỹ, để kiếm tiền mua lại. Các Soeur chỉ biết sống phó thác lên cho Chúa, khi mà mình phục vụ giáo hội thì giáo hội sẽ có cách để bù đắp lại thôi. Vấn đề đáng quan tâm bây giờ là ơn gọi, làm như thế nào để có người nối tiếp.
NL: Đến hiện nay, thì thương mại/tổ chức này có phát triển thêm không?
JH: Theo chiều hướng thì nhà dòng vẫn cố gắng làm những gì có thể làm được. Cũng có những người cho các em đến tìm hiểu.
Nhu Le: First of all, can you introduce yourself including your name, age, and present job in Portland?
Joanna Nga Hoàng: My name is Hoang Nga Joanna, I am forty-eight years old. I am currently working at the Archdiocese of Portland, Oregon.
NL: Can you tell us where you were born in Vietnam? Which year?
JH: I was born in Binh Duong, Vietnam, in 1972.
NL: Why did you, your family, or your relatives decide to leave your homeland and come to the United States? What brought you to Portland?
JH: First, my father went through the HO [Humanitarian Operation] program because he used to work for the Republic of Vietnam at that time. With the citizenship, since my father came back from prison, I also lost a lot of my citizenship. About my father, I do not have a say, but with our siblings or family, they did not have citizenship rights either. Many times, when we [would] go to school or work, we would be discriminated against because our descendants had the military power, and we would be examined. Sometimes I did not get the chance to progress or study more. For that reason, if there was a chance, my family would grasp it. Because I lost my citizenship. For example, since my father had been in the army since the Republic of Vietnam, he may lose his citizenship, but the children or family members would [also] be affected. Another problem is religion. Because my family is Catholic, when I take the entrance exams for college or whatever profession they will check on that. We did not have the same rights as the others, so my family had to go. My family has been living in the city of Los Angeles, California, since settling in the United States. As for me, I came over here [to Portland] because there was a congregation. So when I came to America I joined the congregation.
NL: How old [were you] when you left? At that age, what [were] your feelings when leaving?
JH: I left Vietnam when I was about twenty-two years old, in 1994. Honestly, no one wants to leave because we were born and raised there. Everything is there. At that time, when my family decided to go to America, no one thought they would return and there were no relatives in America, so we were completely empty-handed when we left. When my family started off, there was only $1,000 in our hands for nine people total. Our acquaintances took care of the papers and helped the family come to the associations to finish the procedures. Honestly, when we came here, it was called ‘sacrifice.’ There was a lot to leave behind. If there was a better choice, I would not have left Vietnam because of birth, growing up, relatives, family, everything. My sister at that time had to stay because she was married, so she could not follow us, but I did not know when I would get to see her again when we left. It is easier now, but when we left, our family did not think we would return, nor did we know how long it would take to get enough money to buy a plane ticket. So it was really painful at that time. Although there are many people saying that there will be a more prosperous life here, the important point is the mentality, so sometimes people are poor but they have a spirit. When I left Vietnam, I felt a great loss.
NL: While on the way from Vietnam to the United States, did you face any obstacles? What is your most memorable memory from that time?
JH: On our way here there were not any problems. We flew from Vietnam to the airport in Thailand. But, I had never traveled abroad. At that time as a refugee, we were there for about ten hours waiting to change planes. Because we were refugees, they would not let us inside the airport, so we stayed in a camp and those who were traveling would be taken to another area.
I still remember that we were settled in a fence and were tired, hungry, and thirsty at the same time. They did sell water, but a bottle of water is $1.50, too expensive for us to buy. Because we just came over we did not dare, but in the end, my family decided to buy a bottle and each of them shared a drink to relieve our thirst. Although the government let us go legally, there were things I could not imagine. Yes, I feel that I am luckier than many people. It was a memory that, when I think about it, my journey through here was more fortunate than those who crossed the border by boat. At the very least I had money to buy water.
NL: When entering the United States in general, and Portland in particular, what was your most memorable surprise?
JH: When my family arrived in Los Angeles we knew it would be during November so the weather would be cold, but I did not think it was terribly cold. Fortunately, it was not very cold when we were in California. Still, I wore multiple layers and still trembled. The first impression is cold. There are things that surprised me, because when I was in Vietnam and watched movies with foreign scenes, I saw the car come in and the door opened automatically. In my mind I thought, “They must be acting, there are two people. One standing and pulling the door.” But by the time we were in the Los Angeles airport, we came to the door and it automatically opened, so I said, “Oh? I can’t see the person. I don’t understand why the door opens.” Therefore, many times when I think about it, I am in a country where there is no literature, so when I go to another country, it surprises me. There are things that are very normal, but for me, I was surprised. At that time, our acquaintances picked us up. After that, we studied and worked. Actually, the first years were quite hard, the acquaintances helped us partly with paperwork and the rest was me and my family. Fortunately, the Vietnamese community in California has programs to help immigrants and refugees. Besides, my family is under the HO category, so I get a lot of subsidies from the government. It was not that bad physically, but mentally, I think it is the same for everyone. Migrating means that we leave our homeland, neighbors, and family. It will take some time to get used to a new life.
NL: Compared to Oregon, the weather in California is warmer. So, when you came over here, did you see the difference between California and Oregon?
JH: When I returned to the congregation house in this state it was April so the weather was nice. The weather is also colder than in California, but I lived in Cali only for half a year. When I came here, it felt suitable because I am a nun. Just as when I lived and grew up in the countryside, I like Portland's climate because it is quiet and harmonious. California is noisy and bustling. In terms of the community, there is not much difference—because I was in Cali for five to six months, I did not go out much. When I came here, there was the Our Lady of Lavang Parish and the sisters. The Vietnamese people here were very concentrated. Therefore, if I have a vacation, I will go to Cali, but for a short time. If I stayed, I would not be able to bear it. Perhaps because I am a nun, I prefer the harmony here.
NL: Can you describe the neighborhood in Portland when you first arrived? Did you feel isolated or did you see any Vietnamese Americans nearby?
JH: If we are talking about Portland, I see the most changes around the parish house. Back then, when I came to this area, it was almost a small, lovely village. Because at the beginning of the road, it took just a few steps to get to the bank and post office. It had all of it. Now, it became a street called Stark, and the banks, markets, groceries, and post offices all disappeared. Now it is almost like a dining area, the critics come here. So it has changed a lot. Around us, there are new buildings built—although it has not changed completely, almost all the old houses are destroyed and have become commercial facilities. In the old days it was a quiet residential area because it was up the hill, and now it has changed.
NL: Do you find it difficult to integrate into life here? What are some of the challenges you encountered?
JH: If we [are talking] about coming from Vietnam to the United States, the most difficult thing is about the language, because I did not have previous English skills in Vietnam. So when I came here, everything was new which made me feel like I lost my origins and my confidence. Sometimes I [would] go outside or in the community, too. There are things I knew but I did not dare say because I did not have confidence, nor did I have life experience in the United States. Sometimes when I went out on the street, I got stigmatized by other people, but I also dared not speak. That is the problem of the Vietnamese people who have recently come here. As for the matter of eating and drinking, there is no big difference. Because there is also Vietnamese cuisine [here], there is not much shortage. The issue of life to integrate here, there are things I do not know because I live the way of living in Vietnam. It all takes time, slowly learning to understand.
NL: What work do you do now and how does it compare with the work you have done in Vietnam, and how is it similar and different?
JH: My current job is very suitable. This year, I have officially worked for nine years. Because of work, the environment is a help to parishes. In the past, I worked in the Our Lady of Lavang Parish; that is, doing what the Archdiocese put down. And now I am working at the Archbishop's office with a program to support the parish. It is at another step, but it is also related to the work of the parish. I find that when working in the Archbishop's Archdiocese, it is good for me. The first thing is I can help the Vietnamese community. For instance, there are things that the Archdiocese needs to contact in Vietnam or in the marriage courts, so I can help with translation. Just as the Archdioceses need to contact the parish, having language problems, I can help with that as well. So, I find this job very good for myself, from the benefits, to administrative jobs that can help Vietnamese people.
NL: What economic and social issues are most notable in the Vietnamese community, or with refugees in general? Can city, state, or federal programs help with these problems?
JH: When my family came here, the government provided support for the first few months while we were looking for a job, but after that we did not receive much support from the community anymore. Mostly, for example, when I went to Portland Community College [PCC], there was a financial aid program. For those, if I meet the conditions of a low income person, they will [support me]. As for the subsidy programs, I do not know much, but I found that if the community had subsidy programs, especially for immigrants, it would help them a lot. Because when they go to a certain place their life becomes disrupted and finding jobs is not easy. Even if families from Vietnam come over here later, they can have a degree in Vietnam, but that does not mean they could find a job right away. Then they get culture shock—for example, if they live in Vietnam and they are doctors but then they come here, they cannot be doctors anymore. They had to go to work in another profession, for example nail jobs, to have money to take care of the family. From a high position to an ordinary one. The fact is that my father used to work in the office before, then over here, he had to deliver newspapers because he was not able to get a job. There are things they must accept and do, but in their hearts there is guilt and shame. So the newcomers are affected a lot. If there are programs to help them get through, at least initially, it would be of great help.
I saw that there were many people here, living here not long ago, who then went back to Vietnam. They did not know that it would take at least one to two years for them to stabilize mentally, culturally, and in their work. They won't be able to find jobs right away, but to understand these problems they need to be guided, and fortunately they will be able to overcome them. Almost all the people who I come into contact with, they all have similar problems.
NL: Do you see any difference between education in the US and education in Vietnam?
JH: Now, I do not know what reforms and changes they have, but the generation of mine was more than twenty years ago until the time I came to America, I saw a lot of difference. In [Vietnamese] schools, for example, students will learn in a way that “what the teacher says will be listened to exactly.” It has no creativity, or freedom of opinion or thought. How the teachers write on the board, the students write it down and memorize it. I see a difference on that point. Another problem in Vietnam is which families have the financial means to support their children in school. The second is about background issues. Although there are families that can afford to send their children to school, it does not work when it comes to the background. That is the limit. Also, in America anyone can learn. There is no age limit, if they are now seventy or eighty years old, if they want to go to school to get a high school diploma or go to university, they can still attend school. Even if they are poor, the government has programs in place to help the poor go to school. Here, they create opportunities for everyone to have an education, but in Vietnam many children hope to go to school but the circumstances do not allow it. In Vietnam, it is a dream to go to university.
NL: On the Catholic side, when a person wants to practice, they will say that they have a vocation. So why did you decide to become a nun?
JH: Up to now, when asking about vocations, I do not have a perfect answer. Actually, the vocation to become a nun is like when a couple loves each other—people do not understand why they love each other, why they choose that person. So for myself, sisterhood is the same.
I entered the congregation late, at that time I was about nineteen years old. What made me think and decide that was that when my family had papers to go to the United States, I was not able to be admitted to university. At that time I intended to study pedagogy, but after a few months they wanted to cut off our household registration for me to go to school. So if I was cut out of the household registration, I could not go to America with my family, so I could not continue to study. As a result I was at home, so I also participated in charity work a lot. I often visited the same camp, then I met the sisters there. Once, because those sisters knew that I was also qualified with pedagogy, they asked me to tutor the children of lepers because they were discriminated against in school. Their friends at school did not share a table with them even though they did not have leprosy. On the street, they were teased for being a leper’s child, so they were guilty. Every month, she went to teach the children tutoring, but at that time my parents refused because they were afraid of getting sick. Somehow, God used the words of my father and then said, “If I want to help, then I should go to practice religion.” Because if I unfortunately got infected, I lived with the congregation family to take care of, but if I stayed home and got sick, my parents would die, [and then] who would take care of me? Finally, I decided to practice sisterhood. Just things like that brought me to the spiritual path. Now, I have been a nun for twenty-five years, but I have never questioned whether or not I should change my vocation.
NL: Do you have anything we have not asked yet that you want to share?
JH: There are really a lot of problems that I can talk about with young people, especially for Vietnamese friends. Actually, when you are born and raised here, you are missing something that you do not have experience with Vietnamese customs and culture, so it is more difficult for them when their parents grow up and have been used to living like that. Sometimes they were here for ten to twenty years, but they could not be exactly like Americans. So, we must understand and sympathize with each other. There are parents and children who do not understand each other; young parents may understand, but with older parents, sometimes they cannot understand the thinking of young people and young people cannot understand the concerns of adults.
Therefore, we need sympathy—even though we live in America, you do not have to be completely like Americans. One thing is that you must always be proud [that] you are Vietnamese. You have to know that we have very good cultures that Americans must learn from. Do not think that being born in America means that you are American—they [will] never see you as white. No matter what, they still look at you all with yellow skin. So you have to show who you are, a person of color. I see that there are many Vietnamese who have been very successful in America, but they do not recognize them as Vietnamese. There is nothing to be ashamed of because you are Vietnamese, you have to be proud to live. There are habits and culture that are not suitable in this country which you do not need to keep, but if it is a good habit you should keep it. For example, at the Archbishop's Archdiocese, the spirit of the Vietnamese people must be respected in the Parish of Our Lady of Lavang. Recently, in December 2018, the church got hit by a car, it all fell apart, but after a few days it was back to normal. Now, the parish has bought a new building due to all the efforts of the laypeople. Therefore, not all people are perfect. Sometimes Black people, Japanese, and Koreans also have their own beauty. It is not that white America is number one, perfect.
NL: How did the Sisters Adorers of the Holy Cross of Dalat begin or [where did they] originate from?
JH: Sisters Adorers of the Holy Cross of Dalat is from Vietnam. Before 1975, there were three sisters studying abroad here. They stayed here until 1975 when they were stuck here, so they could not come back [to Vietnam]. During the Vietnam War, the sisters stayed here in America. Later, the families of the sisters came here through HO, most of them. When I came here, the sisters stayed here together, then slowly the congregation developed. Then there were younger sisters who had a vocation to go to practice.
NL: Were there any difficulties during the opening of your organization? How did you overcome these challenges?
JH: The hard challenge up to now is still the economic problem. Actually, the Sisters are not poor, we are living under the vocation of poverty, but later on, we are better off. Especially in the later years, because for the first time, the Sisters had to do it by themselves and had to work. In general, it was very difficult but thanks to the help of the community and the parish, the Sisters went to work to have insurance, and also had to pay the rent like the families outside. But the difference is that the Sisters do liturgical work. Until now, when the younger generations enter the congregation or the sisters from Vietnam come over, we must also help them obtain qualifications so that they can go to the service. Now that I, as a Sister, have gone to work, I will help them in return. Programs such as learning about vocations for young girls, and also charity, we still have to do. The responsibility of the congregation of the Sisters is education, so the Sisters also have childcare, so when parents bring children, we have a little income through that. In difficult family cases, the Sisters must also be there for support. In the past, the synagogue of the Sisters was rented from the Archbishop's, but later bought by us, so for a while we had to go to do fundraising to earn money to buy the building. We only commit ourselves to God. When we serve the Church, the Church will have a way to make up for it. The problem now is the vocation.
NL: Up to now, has this organization developed further?
JH: In a sense, the congregation still tries to do what it can.